Phèn đen còn gọi là tạo phàn diệp, chè nộc. Tên khoa học:
Phyllanthus recticulatus Poir., họ thầu dầu. bộ phận dùng: rễ và lá. Rễ
thu hái vào mùa thu, lá thu hái vào mùa xuân, hạ. Rễ phèn đen sở hữu
taraxeryl acetat, taraxeron, betulin và flavonoid và 1 số chất khác.
Theo
Đông y, phèn đen vị đắng chát, tính mát; với tác dụng làm cho se, giảm
đau, sát khuẩn, giải độc. sử dụng làm thuốc cầm máu, chữa đậu mùa, chữa
viêm cầu thận, chữa lỵ ỉa chảy.
Cây phèn đen là vị thuốc Đông y chữa lỵ, tiêu chảy rất tích cực.
Chữa lỵ cấp tính:
Rễ
phèn đen 20g, dây mơ lông 20g, rễ seo gà 20g, rễ cỏ tranh 20g, gừng
tươi 3 lát. Sắc uống. Ngày uống 1 thang. (Nam dược thần hiệu).
Rễ phèn đen 20g, rễ seo gà 20g, vỏ rụt 10g. toàn bộ sao đen, sắc đặc. Ngày uống một thang.
Chữa
lỵ: rễ phèn đen 20g, vỏ quả lựu 20g. Rễ phèn đen sao vàng hạ thổ, vỏ
quả lựu sao vàng. Sắc chia uống hai lần trong ngày. thời gian điều trị 3
- 7 ngày.
Chữa đòn đánh ứ máu: lá phèn đen tươi 40g, giã nát, thêm một chén rượu, ép vắt lấy nước, cho uống.
Chữa nhọt độc mới phát: lá phèn đen tươi, củ chuối tiêu; giã nát đắp chỗ đau.
Thuốc
cầm máu dùng tại chỗ: lá phèn đen 300g, cành lá non cây sim 500g, ngũ
bội tử 100g, xạ can 50g. Sắc sở hữu nước, cô thành cao đặc tỷ lệ 1:1.
làm cho thuốc cầm máu khi đứt chân tay và những vết xước nhỏ có chảy
máu. Nên đóng chai và hấp diệt trùng trong 30 phút.
TS. Nguyễn Đức quang quẻ