Viêm màng não là bệnh lý thần kinh thường gặp,
là hiện tượng viêm của màng não dẫn đến các triệu chứng như đau đầu,
cứng gáy, sợ ánh sáng và tăng số lượng bạch cầu trong dịch não tủy.
Nguyên
nhân của bệnh viêm màng não có thể do nhiễm khuẩn hoặc không do nhiễm
trùng. Các bệnh lý không nhiễm khuẩn thường có bệnh cảnh và tên gọi
riêng nên khi đề cập đến viêm màng não thường nói đến viêm màng não
nhiễm trùng do vi khuẩn, virut, nấm, ký sinh trùng...
Triệu chứng của bệnh
Triệu
chứng kinh điển của viêm màng não bao gồm sốt, đau đầu, cứng gáy, sợ
ánh sáng, buồn nôn, nôn và các dấu hiệu rối loạn chức năng não (như lơ
mơ, lú lẫn, hôn mê) có thể cấp tính trong vài giờ đến vài ngày hoặc lâu
hơn đến hàng tuần. Các triệu chứng có khi xuất hiện không điển hình, đầy
đủ ở các nhóm bệnh nhân cao tuổi, nhất là khi có bệnh nền kèm theo (đái
đường, bệnh gan, bệnh thận); bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính; bệnh
nhân suy giảm miễn dịch khác như người ghép tạng, bệnh nhân HIV/AIDS.
Cấu tạo màng não bình thường so với màng não bị viêm.
Thời
gian, địa điểm phát bệnh có vai trò quan trọng trong xác định nguyên
nhân. Nhiều mầm bệnh xuất hiện gây bệnh theo mùa. Enterovirus gặp ở khắp
thế giới, gây nhiễm vào cuối hè đầu thu ở vùng ôn đới nhưng quanh năm ở
vùng nhiệt đới. Trái lại các virut quai bị, sởi, thủy đậu, zona hay gặp
hơn vào mùa đông xuân. Những yếu tố như tiền sử tiếp xúc người mắc
bệnh, tiếp xúc động vật hay ăn các thức ăn từ động vật (sữa, pho mát,
tiết canh...), quan hệ tình dục, đi lại giữa các vùng địa lý có thể giúp
bác sĩ định hướng nguyên nhân, loại vi khuẩn gây bệnh.
Khi
thăm khám, bác sĩ thường phát hiện các dấu hiệu rối loạn chức năng não
bao gồm lú lẫn, kích thích, sảng và hôn mê. Những biểu hiện này thường
kèm theo sốt và sợ ánh sáng. Các dấu hiệu kích thích màng não như
Kernig, Brudzinski, cứng gáy có thể chỉ gặp ở 50% số bệnh nhân viêm màng
não mủ...
Căn nguyên gây bệnh
Viêm màng não mủ:
trước đây, H. influenzae là tác nhân hay gặp nhất gây viêm màng não mủ ở
mọi lứa tuổi nhưng nay hay gặp là phế cầu. Căn nguyên vi khuẩn gây bệnh
cũng thay đổi theo tuổi, tình trạng miễn dịch, các tổn thương tai nạn,
phẫu thuật thần kinh.
Viêm màng não nước trong:
là hội chứng hay gặp nhất trong các nhiễm trùng hệ thần kinh trung
ương, phần lớn do các mầm bệnh virut nhưng cũng có thể gặp vi khuẩn, nấm
và ký sinh trùng.
Viêm màng não mạn tính: triệu
chứng kích thích màng não cùng với tăng bạch cầu trong dịch não tủy kéo
dài trên 4 tuần, căn nguyên có thể là vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng.
Nguyên tắc điều trị
Bệnh
nhân cần nhanh chóng được chọc dịch não tủy khi nghi ngờ có viêm màng
não trên lâm sàng. Khi không có dấu hiệu thần kinh khu trú thì không
nhất thiết chờ đợi thăm dò chẩn đoán hình ảnh mà ưu tiên chọc dịch não
tủy và cho dùng ngay kháng sinh. Dùng ngay kháng sinh theo kinh nghiệm
dựa trên các khuyến cáo tại địa phương. Điều chỉnh kháng sinh dựa trên:
kết quả soi dịch não tủy; kết quả cấy sơ bộ dịch não tủy; kháng sinh đồ
của vi khuẩn phân lập được; đánh giá hiệu quả điều trị; kháng sinh sử
dụng phải thấm được vào khoang dưới nhện với nồng độ hữu hiệu. Ví dụ như
các penicillin, một số cephalosporin (thế hệ III, IV), carbapenem,
fluoroquinolon và rifampin. Chú ý điều trị hỗ trợ và tích cực giải quyết
các biến chứng.
Một số trường hợp đặc biệt,
ví dụ viêm màng não do lao, bác sĩ sẽ lựa chọn phác đồ 4 - 5 thuốc chống
lao trong giai đoạn tấn công kết hợp cùng với corticoid, thời gian điều
trị ít nhất 1 năm. Các thuốc corticoid, thuốc chống phù não, tăng cường
dinh dưỡng sẽ được bác sĩ chỉ định trong từng trường hợp, căn nguyên
gây bệnh cụ thể.
Tiên lượng và biến chứng
Một
số biến chứng có thể gặp là liệt thần kinh sọ, giảm thính lực, não úng
thủy thể tắc nghẽn, tổn thương nhu mô não dẫn tới các khuyết tổn vận
động, cảm giác, bại não, sa sút trí tuệ, chậm phát triển tinh thần, mù
vỏ và động kinh.
Các bệnh lý viêm màng não
căn nguyên do virut thường có tiên lượng tốt, ít di chứng ngoại trừ một
số virut như virut thủy đậu, gần đây là virut Zika đang được truyền
thông nhắc đến và đặc biệt virut viêm não Nhật Bản B sẽ có thể để lại
các di chứng thần kinh nặng nề.
Viêm màng não
do lao, nếu được điều trị sớm sẽ có thể khỏi, ít di chứng, nhưng nếu
điều trị muộn, di chứng về thể chất, trí tuệ, tinh thần cũng rất nặng
nề. Các trường hợp viêm màng não mủ thường có tiên lượng tốt nếu điều
trị kịp thời, có thể khỏi hoàn toàn không có di chứng.
Phòng bệnh
Những
trường hợp viêm màng não do não mô cầu phải được điều trị cách ly tuyệt
đối. Hiện đã có các vắc-xin cho HIB, phế cầu, não mô cầu và một số tác
nhân virut như sởi, quai bị, Rubella, viêm não Nhật Bản B. Những người
tiếp xúc phơi nhiễm không mang phương tiện phòng hộ hữu hiệu đối với các
bệnh nhân viêm màng não do các căn nguyên lây nhiễm cao như
H.influenzae typ B, não mô cầu... nên được uống thuốc dự phòng theo chỉ
dẫn của bác sĩ chuyên khoa truyền nhiễm. Ngoài ra, các biện pháp dự
phòng chung khác như vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường ngoại
cảnh nên được quan tâm và thực hiện thường xuyên đúng mực.
ThS.BS. Vũ Hoài Nam (Phó Trưởng khoa Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Hữu nghị)